Trẻ tự kỷ là gì? Các công bố khoa học về Trẻ tự kỷ

Trẻ tự kỷ là một rối loạn phát triển não bộ nhằm ảnh hưởng đến khả năng giao tiếp, tương tác xã hội và hành vi của trẻ. Trẻ tự kỷ thường xuất hiện từ sớm trong ...

Trẻ tự kỷ là một rối loạn phát triển não bộ nhằm ảnh hưởng đến khả năng giao tiếp, tương tác xã hội và hành vi của trẻ. Trẻ tự kỷ thường xuất hiện từ sớm trong đời, thường trong giai đoạn từ 1 đến 3 tuổi. Những biểu hiện thường gặp ở trẻ tự kỷ bao gồm khả năng giao tiếp kém, khó tiếp thu và sử dụng ngôn ngữ, khó tương tác xã hội, quan tâm hạn chế hoặc mê hoặc với một số hình thức hoạt động cụ thể, và phản ứng không bình thường đối với ánh sáng, âm thanh hoặc các kích thích khác. Trẻ tự kỷ đòi hỏi sự chăm sóc, hỗ trợ và giáo dục đặc biệt để giúp phát triển các kỹ năng cần thiết cho cuộc sống hàng ngày.
Chi tiết hơn, trẻ tự kỷ là một rối loạn tự kỷ, còn được gọi là tự kỷ trong rối loạn tự kỷ (ASD - Autism Spectrum Disorder). Đây là một trạng thái phát triển không bình thường của não bộ, ảnh hưởng đến khả năng tương tác xã hội, giao tiếp và hành vi của trẻ.

Các biểu hiện của trẻ tự kỷ có thể biến đổi từ nhẹ đến nặng và khác nhau ở các trẻ. Tuy nhiên, có một số biểu hiện phổ biến được thấy ở đa số trẻ tự kỷ:

1. Khả năng giao tiếp kém: Trẻ tự kỷ thường gặp khó khăn trong việc sử dụng và hiểu ngôn ngữ. Họ có thể không có khả năng nói hoặc gặp vấn đề trong việc sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp và chia sẻ cảm xúc.

2. Vấn đề trong tương tác xã hội: Trẻ tự kỷ thường không có khả năng tương tác xã hội tự nhiên. Họ có thể tránh tiếp xúc mắt và không có khả năng thể hiện cảm xúc hay tìm hiểu về người khác.

3. Quan tâm hạn chế: Trẻ tự kỷ thường có sự quan tâm đặc biệt đến một số hình thức hoạt động cụ thể và không thể chuyển sang các hoạt động khác. Ví dụ, một số trẻ có thể mê hoặc với các đồ chơi đặc biệt, tích trữ đồ vật, lại lặp đi lặp lại một số hành động như nheo mắt hoặc bập bênh.

4. Quản lý kích thích: Trẻ tự kỷ có thể có những phản ứng bất thường đối với ánh sáng, âm thanh hoặc xúc giác. Họ có thể trở nên nhạy cảm với tiếng ồn, ánh sáng mạnh hay sự tiếp xúc với các chất liệu như lông, vải hoặc thức ăn.

Trẻ tự kỷ cần phải được chẩn đoán và nhận được sự chăm sóc, hỗ trợ và giáo dục đặc biệt. Phương pháp định hướng hành vi, phương pháp giáo dục ABA (Applied Behavior Analysis), phương pháp giáo dục đặc biệt và các phương pháp hỗ trợ ngôn ngữ có thể được áp dụng để giúp trẻ phát triển các kỹ năng cần thiết cho cuộc sống hàng ngày và tạo điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của họ.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "trẻ tự kỷ":

IQ-TREE 2: Những Mô Hình Mới Và Các Phương Pháp Hiệu Quả Cho Suy Luận Phát Sinh Chủng Loài Trong Kỷ Nguyên Genom Dịch bởi AI
Molecular Biology and Evolution - Tập 37 Số 5 - Trang 1530-1534 - 2020
Tóm tắt

IQ-TREE (http://www.iqtree.org, truy cập lần cuối vào ngày 6 tháng 2 năm 2020) là một gói phần mềm thân thiện với người dùng và được sử dụng rộng rãi cho suy luận phát sinh chủng loài dựa trên tiêu chí cực đại x-likelihood. Kể từ khi phát hành phiên bản 1 vào năm 2014, chúng tôi đã liên tục mở rộng IQ-TREE để tích hợp nhiều mô hình mới về sự tiến hóa của trình tự và các phương pháp tính toán hiệu quả cho suy luận phát sinh chủng loài nhằm xử lý dữ liệu hệ gen. Trong bài viết này, chúng tôi mô tả những tính năng nổi bật của phiên bản IQ-TREE 2 và nhấn mạnh những ưu điểm quan trọng so với các phần mềm khác.

#IQ-TREE #suy luận phát sinh chủng loài #tiêu chí cực đại x-likelihood #mô hình tiến hóa trình tự #kỷ nguyên genom
Phiên bản sửa đổi của bài kiểm tra “Đọc tâm trí qua đôi mắt”: Nghiên cứu trên người lớn bình thường và người lớn mắc hội chứng Asperger hoặc tự kỷ chức năng cao Dịch bởi AI
Journal of Child Psychology and Psychiatry and Allied Disciplines - Tập 42 Số 2 - Trang 241-251 - 2001

Năm 1997, trong Tạp chí này, chúng tôi đã công bố bài kiểm tra “Đọc tâm trí qua đôi mắt” như một biện pháp đánh giá “khả năng tư duy tâm lý” ở người lớn. Trong khi bài kiểm tra đó thành công trong việc phân biệt một nhóm người lớn mắc hội chứng Asperger (AS) hoặc tự kỷ chức năng cao (HFA) với các đối chứng, nó đã gặp phải một số vấn đề tâm lý đo lường. Trong bài báo này, những hạn chế đó đã được khắc phục thông qua việc sửa đổi bài kiểm tra. Bài kiểm tra mắt đã được sửa đổi được áp dụng cho một nhóm người lớn mắc AS hoặc HFA (N= 15) và một lần nữa phân biệt những người này với một số lượng lớn đối chứng bình thường (N= 239) được chọn từ các mẫu khác nhau. Trong cả hai nhóm lâm sàng và đối chứng, Bài kiểm tra mắt có mối tương quan nghịch với Chỉ số quang phổ tự kỷ (AQ), một biện pháp đánh giá các đặc điểm tự kỷ ở người lớn có chỉ số thông minh bình thường. Bài kiểm tra mắt đã được sửa đổi có khả năng cải thiện khả năng phát hiện những khác biệt cá nhân tinh tế trong sự nhạy cảm xã hội.

#Bài kiểm tra Đọc tâm trí qua đôi mắt #hội chứng Asperger #tự kỷ chức năng cao #khả năng tư duy tâm lý #nhạy cảm xã hội
Carbon-hydrogen stretching modes and the structure of n-alkyl chains. 1. Long, disordered chains
American Chemical Society (ACS) - Tập 86 Số 26 - Trang 5145-5150 - 1982
Hiểu biết cơ học, hành vi và ý định trong các câu chuyện tranh ở trẻ tự kỷ Dịch bởi AI
British Journal of Developmental Psychology - Tập 4 Số 2 - Trang 113-125 - 1986

Các trẻ tự kỷ có khả năng cao đã được so sánh với các trẻ có khả năng thấp bị hội chứng Down và các trẻ bình thường ở độ tuổi mẫu giáo trong một nhiệm vụ sắp xếp tranh theo trình tự. Khi các trình tự có thể được hiểu theo các tiêu chí về cơ chế nguyên nhân hoặc chỉ đơn giản là mô tả hành vi, các trẻ tự kỷ ít nhất cũng tốt như nhóm đối chứng và thường cho thấy hiệu suất vượt trội. Tuy nhiên, đối với những trình tự yêu cầu hiểu biết theo các tiêu chí tâm lý - ý định, các trẻ tự kỷ lại thể hiện kết quả kém hơn nhiều so với các trẻ khác. Mô hình này cũng được thấy trong ngôn ngữ mà các trẻ sử dụng để kể lại các câu chuyện sau đó. Ngược lại với nhóm đối chứng, các trẻ tự kỷ sử dụng ngôn ngữ liên quan đến nguyên nhân và hành vi, nhưng hầu như không bao giờ sử dụng ngôn ngữ liên quan đến trạng thái tâm lý. Thí nghiệm này xác nhận và mở rộng một nghiên cứu trước đây của chúng tôi, cũng đã kiểm tra giả thuyết về một khiếm khuyết nhận thức cụ thể có vẻ như ngăn cản sự phát triển của 'lý thuyết về tâm trí' ở trẻ tự kỷ.

Carbon-hydrogen stretching modes and the structure of n-alkyl chains. 2. Long, all-trans chains
American Chemical Society (ACS) - Tập 88 Số 3 - Trang 334-341 - 1984
SỬ DỤNG HỆ THỐNG GIAO TIẾP THAY THẾ HÌNH ẢNH (PECS) VỚI TRẺ TỰ KỶ: ĐÁNH GIÁ VỀ VIỆC TIẾP CẬN PECS, NÓI, HÀNH VI XÃ HỘI-GIAO TIẾP VÀ HÀNH VI VẤN ĐỀ Dịch bởi AI
Journal of Applied Behavior Analysis - Tập 35 Số 3 - Trang 213-231 - 2002

Hệ thống giao tiếp thay thế hình ảnh (PECS) là một hệ thống giao tiếp tăng cường thường được sử dụng với trẻ em tự kỷ (Bondy & Frost, 1994; Siegel, 2000; Yamall, 2000). Mặc dù việc sử dụng PECS trong thực hành lâm sàng là khá phổ biến, nhưng chưa có những nghiên cứu thực nghiệm kiểm soát tốt nào được thực hiện để kiểm tra hiệu quả của PECS. Sử dụng thiết kế nhiều cơ sở, nghiên cứu hiện tại đã khảo sát việc tiếp thu PECS ở 3 trẻ em tự kỷ. Ngoài ra, nghiên cứu này cũng xem xét tác động của việc đào tạo PECS đến sự phát triển của khả năng nói trong các hoạt động chơi và học tập. Các biện pháp bổ sung về hành vi xã hội-giao tiếp và hành vi vấn đề đã được ghi nhận. Kết quả cho thấy cả 3 trẻ em đều đạt tiêu chí học PECS và có sự gia tăng đồng thời trong khả năng nói. Những lợi ích bổ sung được liên kết với sự gia tăng các hành vi xã hội-giao tiếp và giảm thiểu các hành vi vấn đề. Kết quả được thảo luận dưới góc độ cung cấp hỗ trợ thực nghiệm cho PECS cũng như các tác dụng phụ tích cực đồng thời của việc sử dụng hệ thống này.

Hướng dẫn về việc sử dụng Apheresis điều trị trong thực hành lâm sàng—Cách tiếp cận dựa trên bằng chứng từ Ủy ban viết của Hiệp hội Apheresis Hoa Kỳ: Số đặc biệt thứ Sáu Dịch bởi AI
Journal of Clinical Apheresis - Tập 28 Số 3 - Trang 145-284 - 2013

Ủy ban viết số đặc biệt JCA của Hiệp hội Apheresis Hoa Kỳ (ASFA) có nhiệm vụ xem xét, cập nhật và phân loại các chỉ định cho apheresis điều trị. Bắt đầu từ Số đặc biệt ASFA năm 2007 (Phiên bản thứ Tư), ủy ban đã tích hợp xem xét có hệ thống và phương pháp dựa trên bằng chứng vào việc phân loại và đánh giá các chỉ định. Phiên bản thứ Sáu của Số đặc biệt ASFA đã cải thiện quy trình sử dụng y học dựa trên bằng chứng trong các khuyến nghị bằng cách áp dụng nhất quán các định nghĩa của hệ thống phân loại và GRADE, nhưng loại bỏ tiêu chí "mức độ bằng chứng" (từ Liên minh Chăm sóc Sức khỏe Đại học) đã được sử dụng trong các phiên bản trước do sự dư thừa giữa hệ thống GRADE và Liên minh Chăm sóc Sức khỏe Đại học. Bố cục và khái niệm chung của bảng thông tin đã được sử dụng trong các phiên bản thứ Tư và thứ Năm đã được duy trì trong phiên bản này. Mỗi bảng thông tin tóm tắt ngắn gọn bằng chứng cho việc sử dụng apheresis điều trị trong một thể bệnh cụ thể. Bài viết này bao gồm 78 bảng thông tin (tăng từ 2010) cho các chỉ định điều trị trong các danh mục ASFA từ I đến IV, với nhiều bệnh được phân loại có nhiều biểu hiện/situation lâm sàng mà từng cái được đánh giá và phân loại riêng biệt. J. Clin. Apheresis 28:145–284, 2013. © 2013 Wiley Periodicals, Inc.

Hướng dẫn về việc sử dụng apheresis điều trị trong thực hành lâm sàng—Cách tiếp cận dựa trên bằng chứng từ Ủy ban ứng dụng apheresis của Hội khoa học Apheresis Hoa Kỳ Dịch bởi AI
Journal of Clinical Apheresis - Tập 22 Số 3 - Trang 106-175 - 2007
Tóm tắt

Ủy ban Ứng dụng Apheresis của Hội Khoa học Apheresis Hoa Kỳ (ASFA) được giao nhiệm vụ xem xét và phân loại các chỉ định cho apheresis điều trị. Quá trình công phu này được thực hiện mỗi 7 năm, dẫn đến ba ấn phẩm trước đó vào các năm 1986, 1993 và 2000 của “Các Vấn đề Đặc biệt ASFA.” Bài báo này là phần thiết yếu của Ấn phẩm Đặc biệt thứ Tư của ASFA. Ấn phẩm Đặc biệt thứ Tư của ASFA có sự sửa đổi đáng kể so với các phiên bản trước. Một khái niệm mới về bảng thông tin đã được giới thiệu. Bảng thông tin tóm tắt ngắn gọn các bằng chứng cho việc sử dụng apheresis điều trị. Một mô tả chi tiết về bảng thông tin được cung cấp. Bài báo bao gồm 53 bảng thông tin dành cho mỗi loại bệnh hiện đang được ASFA phân loại. Các loại I, II và III được định nghĩa như trước trong Ấn phẩm Đặc biệt thứ Ba. Tuy nhiên, một vài phương pháp apheresis điều trị mới, chưa được phê duyệt ở Hoa Kỳ hoặc hiện đang trong giai đoạn thử nghiệm lâm sàng, đã được Ủy ban Phân loại Lâm sàng ASFA phân loại là P (đang chờ). Các bệnh được phân loại là IV sẽ được thảo luận trong một bài báo riêng trong số này. J. Clin. Apheresis., 2007 © 2007 Wiley‐Liss, Inc.

Trẻ em mắc chứng tự kỷ có phải mù trước ý nghĩa tâm lý học của ánh mắt? Dịch bởi AI
British Journal of Developmental Psychology - Tập 13 Số 4 - Trang 379-398 - 1995

Các nghiên cứu trước đây cho thấy rằng trẻ em mắc chứng tự kỷ thể hiện những bất thường trong việc sử dụng ánh nhìn. Chúng cũng gặp khó khăn trong việc hiểu các trạng thái tinh thần. Bài báo này khám phá xem liệu hai bất thường này có mối liên hệ với nhau hay không. Chúng tôi báo cáo bốn thí nghiệm thử nghiệm xem liệu trẻ em bình thường có 'đọc' được mắt, đặc biệt là hướng nhìn, như một dấu hiệu cho thông tin về trạng thái tâm lý của một người hay không, và liệu những đối tượng mắc chứng tự kỷ có thực sự 'mù' với thông tin như vậy hay không. Các trạng thái tâm lý được đánh giá bao gồm mong muốn, mục tiêu, tham chiếu và tư duy.

Kết quả xác nhận rằng trẻ em bình thường thực sự sử dụng hướng nhìn như một tín hiệu để đọc các trạng thái tâm lý này, giống như các đối tượng có khuyết tật tâm thần (bao gồm cả những người mắc Hội chứng Williams). Ngược lại, các đối tượng mắc chứng tự kỷ không sử dụng hướng nhìn để suy diễn các trạng thái tâm lý. Thêm vào đó, trong khi trẻ em bình thường và trẻ em có khuyết tật tâm thần thể hiện sự ưu tiên cho hướng nhìn hơn một dấu hiệu bất thường khi suy diễn các trạng thái tâm lý này, trẻ em mắc chứng tự kỷ thì không. Những phát hiện này gợi ý rằng một phần lý do cho những bất thường trong ánh nhìn ở trẻ em mắc chứng tự kỷ có thể là do sự không hiểu rằng đôi mắt truyền tải thông tin về trạng thái tâm lý của một người.

#trẻ em #tự kỷ #ánh nhìn #trạng thái tâm lý #khuyết tật tâm thần
Tổng số: 459   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10